Chùa Bổ Đà, xã Tiên Sơn, huyện Việt Yên, tỉnh Bắc Giang là danh lam cổ tự nổi tiếng, nơi tu hành của các tăng ni, Phật tử và đào tạo các tăng đồ theo Thiền phái Lâm Tế trong hơn 300 năm. Tương truyền, chùa có từ thời Lý, được tôn tạo và mở rộng vào thời vua Lê Dụ Tông (1720-1729), gồm các đơn nguyên kiến trúc chính: chùa Tứ Ân, am Tam Đức, chùa Cao, vườn Tháp, Ao Miếu và khu vườn chùa. Hiện tại chùa còn lưu giữ 1.935 mộc bản kinh Phật và 18 bộ sách kinh chính được Tổ chức Kỷ lục Việt Nam xác nhận là bộ mộc bản kinh Phật khắc trên gỗ thị cổ nhất Việt Nam, chứa nhiều giá trị về lịch sử, văn hóa, ngôn ngữ, mỹ thuật… Ngoài ra, chùa còn bảo lưu được khu vườn tháp lớn và đẹp nhất nước ta với gần 100 ngôi tháp lớn nhỏ, nơi tàng lưu xá lị của 1.214 tăng, ni thuộc dòng thiền Lâm Tế và 40 pho tượng Phật cổ từ thời Lê, Nguyễn. Với những giá trị đặc biệt tiêu biểu, di tích lịch sử kiến trúc nghệ thuật chùa Bổ Đà đã được Thủ tướng Chính phủ ra Quyết định xếp hạng là di tích quốc gia đặc biệt (tại Quyết định số 2499/QĐ-TTg ngày 22/12/2016).
Gắn với di tích chùa Bổ Đà là Lễ hội Bổ Đà, được tổ chức từ ngày 16 đến ngày 18 tháng Hai âm lịch hàng năm tại khu vực núi Bổ Đà, với nhiều nghi lễ và các trò chơi dân gian mang đậm bản sắc văn hoá dân tộc và đặc trưng văn hóa của địa phương.
Để chuẩn bị cho lễ hội, trước đó nhiều ngày, chính quyền, đoàn thể, các thôn họp bàn thống nhất chương trình tổ chức lễ hội, thành lập Ban Tổ chức với một số tiểu ban như: Ban khánh tiết, Ban hậu cần, Ban bảo vệ… để phục vụ lễ hội.
Vào ngày 16 tháng Hai, các tiểu ban bắt đầu điều hành công việc theo chức trách được phân công để làm các việc như tổng vệ sinh các khu vực chính diễn ra lễ hội, làm lễ mộc dục mở cửa chùa, đình, đền để làm sạch đồ thờ tự và các đồ rước, treo cờ hội; điều hành nhân lực tham gia tế lễ, tổ chức làm cỗ thờ, cỗ cúng, rước và tổ chức các trò chơi dân gian... Trong các gia đình, dòng họ cũng làm cỗ chay, cỗ mặn, gói bánh… để thờ cúng tổ tiên, cúng Thần, Phật và mời khách về dự hội. Mỗi gia đình quy định đóng góp một khoản nhất định vào việc chuẩn bị lễ cúng của làng. Vật phẩm dâng lên cúng Phật được dân làng chuẩn bị một cách trang trọng, kỳ công trong từng khâu một, thể hiện tấm lòng thành kính của dân làng đối với đức Phật. Lễ vật cúng ở chùa toàn đồ chay và được chuẩn bị chu đáo, gồm: hoa quả, bánh kẹo, trầu cau, xôi oản, bánh chưng; ngoài ra, còn có thêm bánh dày, bánh khảo, tùy vào từng năm.
Sáng ngày 18, tại chùa Bổ Đà, sư thầy thỉnh kinh, gõ mõ làm lễ cúng Phật. 8 giờ cùng ngày, theo lệ các thôn tập trung ở khu vực phía bên ngoài cổng chùa Bổ Đà để rước kiệu, lễ vật vào trong chùa. Đoàn rước gồm 2 kiệu của thôn Thượng Lát và Hạ Lát dâng lễ vật, xôi oản, trầu cau, rượu, hương hoa... Đi đầu đoàn rước là đội rước cờ hội, đội trống, đội mang chấp kích bát bửu, tiếp đến là đội kiệu gồm 8 người khiêng. Trên kiệu bày đầy đủ các lễ vật mà mỗi thôn muốn dâng lên cúng Phật. Hai bên có hai người cầm tàn, lọng che cho kiệu. Tất cả đều trong trang phục áo nâu đỏ hoặc vàng, quần trắng, thắt đai lưng, chân quấn xà cạp. Theo sau đoàn rước là các đoàn thể trong thôn, các cụ ông cao niên trong làng với trang phục áo the khăn xếp, những người trong Ban tế thì mặc áo dài đỏ, vàng hoặc xanh, đầu đội mũ chuồn, chân đi hia, cuối cùng là các cụ bà trong ban dâng hương (khoảng 20 người) mặc áo nâu. Những người tham gia đoàn rước phải là những gia đình song toàn, không gặp tang trở trong năm, các cụ ông là những người đã lên lão, cụ bà là những người đã đi quy tại chùa.
Lễ vật được trang trọng rước lên chùa, đặt trên ban Tam bảo và các ban dưới sự điều hành của vị sư trụ trì. Sau đó, các cụ được giao nhiệm vụ cúng tế bắt đầu làm lễ. Bài cúng thể hiện rõ tấm lòng thành kính của nhân dân địa phương đối với Phật tổ, cầu cho quốc thái dân an, người người mạnh khỏe, cuộc sống bình yên no đủ, mùa màng bội thu. Những người trong đám rước tự tỏa ra thành hai hàng đứng hai bên kiệu, cầm hương, miệng nhẩm đọc kinh Phật. Cúng Tổ xong, những người tham gia rước được nhà chùa mời ở lại dùng cơm chay. Lễ vật dâng cúng một phần để lại chùa, phần còn lại chia cho các gia đình trong thôn để cùng nhau hưởng lộc.
Trong lễ hội Bổ Đà, người ta còn tổ chức nhiều trò chơi dân gian như: bịt mắt đập niêu, cờ tướng, cờ người,... Hiện nay, Ban Tổ chức còn đưa một số môn thể thao vào để thi đấu trong dịp lễ hội như: bóng chuyền, vật cổ truyền… Đặc biệt, từ nhiều năm nay, định kỳ hai năm một lần, vào dịp Lễ hội chùa Bổ Đà, Sở VHTTDL phối hợp với UBND huyện Việt Yên tổ chức Liên hoan hát Quan họ toàn tỉnh, góp phần bảo tồn, phát huy giá trị Dân ca Quan họ-di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại...
Ngoài ngày hội chính trên, hội Bổ Đà còn diễn ra vào dịp 12 tháng Chín âm lịch, ngày hóa của Thạch linh thần tướng. Đền thờ Thạch linh thần tướng nằm ở trên đỉnh núi Phượng Hoàng (đỉnh cao nhất trong dãy Bổ Đà sơn), gọi là Đền Thượng. Tục truyền khi Thạch Linh thần tướng đánh tan quân giặc, Ngài lên đó rồi hóa về trời, vì thế, nhân dân lập đền ở đây để thờ phụng. Đền quay mặt về phía Nam nhìn ra sông Cầu. Bên phải đền có núi Kim Sơn, bên trái là núi Bàn Cờ, phía sau có núi Con Voi. Trong chùa Tứ Ân (một trong các đơn nguyên kiến trúc chính của di tích chùa Bổ Đà) có bài trí cả một hệ thống tượng thờ gồm tượng Phật, tượng Khổng Tử, Lão Tử và Thạch linh thần tướng.
Vào ngày 12 tháng Chín âm lịch hàng năm, nhân dân trong vùng chuẩn bị lễ vật để dâng lên Thạch tướng quân như: mâm xôi gà, thịt lợn luộc, bánh chưng, xôi, oản, hoa quả… Nhân dân tổ chức rước lễ từ đình Thượng Lát, qua đền Trung rồi lên đền Thượng và tế ở trước cửa đền. Sau khi tế lễ xong nhân dân lại rước về đình Thượng Lát.
Lễ hội Bổ Đà được tổ chức nhằm ghi nhớ công lao to lớn của những vị thần, Phật bảo hộ cho cuộc sống thanh bình, ấm no, hạnh phúc của nhân dân địa phương. Lễ hội còn là dịp để nhân dân ôn lại quá khứ của cha ông, lịch sử gây dựng vùng đất, vị thần, vị thánh đã có công với làng xóm, quê hương, đất nước, qua đó khơi dậy tinh thần tôn kính tổ tiên, đạo lý uống nước nhớ nguồn, tạo sự cố kết cộng đồng. Lễ hội Bổ Đà là nơi duy trì những nghi lễ, lễ thức cổ truyền, đồng thời nuôi dưỡng những sinh hoạt văn hóa dân gian truyền thống khi người dân tham gia thực hành tín ngưỡng và tổ chức lễ hội. Lễ hội cũng là nơi thỏa mãn nhu cầu tín ngưỡng và vui chơi lành mạnh của người dân./.
Sở Văn hoá, Thể thao và Du lịch tỉnh Bắc Giang